Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

Làng bên sông Gianh

Nguyenthanhson

Ghi chép của Nguyễn Hữu Trường
          Sông Gianh (còn có tên gọi là Đại Linh Giang (1)) nằm trên địa phận huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, một vùng đất mà các nhà khảo cổ học từng nhận định là điểm dừng lại phía bắc để trở thành gạch nối giữa nền văn minh hậu kỳ đá mới với nền văn minh tiền kim khí ở dọc suốt dải đất ven biển Trung bộ, tạo nên mạch chảy xuyên suốt của dòng văn hóa người Việt cổ. Sông Gianh cũng lại là con sông của sự chia cắt đất nước Việt thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Nơi hợp long cũng lại là nơi ly tán.
Ảnh khai thác mạng


   Chính bởi lẽ ấy,
ai qua sông Giang, ai ngược dòng Gianh mà không mang chút cảm hoài non nước để rồi hình dung đâu là dấu vết đồn lũy, thành quách một thời trận mạc, đâu là chợ búa, phố phường đã “tà bóng tịch dương”…
          Nhà bác học Lê Quý Đôn xưa đã từng điền dã lưu vực sông Gianh. Ông ghi lại: “Châu Bắc Bố Chính lấy núi Thời Mại(2) làm trấn sơn (núi cao nhất một phương). Sông dài của châu thì có một dòng từ các xã Kim Lũ, Thanh Lạng qua Tuần Bồi mà xuống xã Lũ Đăng rồi ra cửa Đại Linh. Lại một dòng từ chân núi Thời Mại chảy xuống xã Kim Minh đến Cửa Hác hợp lưu sông Lũ Đăng cũng ra cửa Đại Linh. Nguồn sông xa và rộng. Từ Nghệ An đi về phía nam, vượt Hoành SơnThuần Thần, Phù Lưu đi về phía đông, đến Lũ Đăng thì tới sông Gianh. Thượng lưu sông này là nước từ đèo Dài ở huyện Hương Sơn chảy xuống. Dân đội Phúc Nhất, sách Thanh Lạng và xã Kim Lũ thường đi thuyền xuống mua sắm muối ở chợ ấy. Châu Bố Chính dân ở nước làm nghề chài cá, lại quen lên thượng lưu lấy ván đóng thuyền, có phường Đáy Võng (Văn Phú), phường Giáp Ba (Giáp Tam), phường Cương Gián (Tân Mỹ) giáp Trung Hòa Hạ…”(3) (Lê Quý Đôn toàn tập, tập 4, tr.100 và 103, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1960).
          Rõ ràng, việc giao lưu dọc triền sông Gianh tự ngày xưa đã được mở rộng. Sông Gianh không chỉ là con đường giao thương mà còn thu hút du khách bởi cảnh quan ngoạn mục với biết bao trầm tích lịch sử.
Ảnh trên mạng
          Vào những đêm trăng sương mờ nhẹ phủ, bóng cây, bóng núi tầng tầng hắt xuống lòng sông phẳng lặng như tờ. Một tiếng gõ nhẹ mạn thuyền của ngư dân đuổi bắt cá cũng làm xao động cả mặt sông, thổn thức làng mạc ven bờ…
          Ngày nắng, mây trắng bồng bềnh. Nương thuyền dưới rặng dừa Cồn Két (sau này có quy hoạch thành điểm du lịch sinh thái), ta có thể nhìn rõ cảnh quan làng Thổ Ngọa bên này sông, làng La Hà bên kia, làng Lệ Sơn mờ xa thấp thoáng sau bóng lèn Mụ Hôn (Tiên Lệ). Đó là ba trong “Tứ danh hương: Sơn, Hà, Cảnh, Thổ” thuộc phía Bắc Quảng Bình xưa nổi tiếng “địa linh sinh nhân kiệt”…
          Đi dọc triền sông còn gặp bao địa danh nổi tiếng khác. Làng Hòa Ninh, quê hương của danh nhân Đoàn Chí Tuân (Bạch Xỉ) tự xưng Hải Long Vương – một người có thể “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, đoán biết được việc quá khứ, vị lai”, đã từng hợp tác với tướng quân Phan Đình Phùng từ thuở Cần Vương. Hòa Ninh còn là quê hương anh hùng Lâm Úy với trận Xuân Bồ ngày trước. Làng Vĩnh Phước với Truy Viễn Đường thờ thượng tướng quân Nguyễn Khắc Minh thuộc dòng Thái Bảo quận công gốc làng Nhân Mục (Hà Nội) mấy đời mang gươm đi mở nước. Cồn Quan, nơi đặt hương phả thờ dòng họ được phong “Thập bát quận công, tam tể tướng, bách dư tiến sỹ, nhị nương hầu” – họ Nguyễn từ làng An Xá (thuộc phủ Thiên Trường Nam Định) vào đến Mỹ Hòa (Quảng Phúc), con cháu di tán lên đất Cồn Quan (thôn Công Hòa, xã Quảng Trung). Trên kia, làng Thanh Thủy (Tiến Hóa) là quê hương của ông Vắn, ông Võ mà theo truyền thuyết hình ảnh hai ông đã hóa thạch trên hòn Lèn Bảng lồng lộng giữa đất trời, sông núi quê hương, tụ khí thiêng linh ứng cho vùng quê Quảng Trạch xuất lộ nhiều nhân tài muôn đời nối nghiệp tiền nhân. Ông Văn chính là Hoàng Giáp Phạm Duy Đôn, làm quan có tiếng thanh liêm, chính trực; ông Võ là Đề Đốc Lê Trực, lãnh tụ khởi nghĩa quân Cần Vương chống Pháp trên vùng đất phía Bắc Quảng Bình từ năm 1885 đến 1888.
          Khách còn được lắng sâu hồi ức về các tên đất, tên làng với bản trường ca về trận đánh thắng Pháp trên đất Phù Trịch, cầu chợ Tràng tập kích xe bọc thép của giặc tiêu diệt tại chỗ quan năm Tây; Quảng Phúc với “lũy thép bờ Gianh”… Mỗi gương mặt làng quê lấp lánh giờ lại trầm tư hiền hậu sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt…
          Cá nướng thuyền ai, mít chín thuyền ai thơm lừng trời nước, tiếng sáo diều đâu đây vi vút đêm hè thơ mộng… Cảm hứng sông quê “hốt gia nồng” khi được quá giang giữa một đêm trăng non cuối bãi Phù Kênh, quê nội của Nguyễn Hàm Ninh. Ta còn nghe dư âm những chòi nuôi tằm rạo rạt tiếng tằm ăn dỗi; thấm đẫm dư vị những đĩa chắt chắt xào cùng lá lốt, mít non, xúc bằng miếng bánh đa vừng, có thêm bát nước mắm dầm ớt mọi, đôi nhánh gừng tươi, ăn quên no, xa mô rồi cũng nhớ.
ảnh trên mạng
          Dọc triền sông, có biết bao tên đất, tên làng, tên núi, tên cồn gợi nhiều trí tưởng. Bên ni đất Phù Kinh có cồn Rồng, lèn Trôốc Rồng; bên kia làng Tiên Lệ có núi Mũi Rồng; lên Uyên Phong có cồn cát Long Châu; rồi Tiên Lang đối cùng Tiên Lệ… Cả một vùng sông quê như thể rồng thiêng quy tụ, như thể tiên giới giáng trần…
          Đi giữa trời chiều mà cả một đoạn sông tím trong sắc động Chân Linh, tím trong huyền thoại một loạt tên núi như: Thanh Tuyền, Thanh Linh, Vũ Tọa, Bút Sơn, Họa Các, Thi Đàn… làm nên bức dư đồ chín mươi chín chóp lèn Lệ Sơn hùng vĩ với huyền tích trăm con chim phượng hoàng về tìm chỗ đậu. Có người chiết tự: Lệ Sơn là nước mắt của núi, là đất của nuối tiếc, xót thương vì chẳng gặp duyên may được chọn đặt kinh đô. Chúng tôi thì lại nói: Lệ Sơn chính là rừng vải (lệ là cây vải, sơn là núi), cả một rừng vải hào phóng, thường niên đơm hoa kết trái ngọt lành. Những mùa vải chín có hàng trăm loài chim (chứ không chỉ có một bầy chim phượng) về đây, đậu đầy vách núi. Lệ Sơn có đủ ngàn đỉnh cho vạn bầy chim.
          Làng quê “đất lành chim đậu”.
Linh Giang 2009- 2012
            N.H.T  


(1). Đại Linh giang: tên gọi khác của sông Gianh.
(2). Thời Mại: tức Cao Mại, thuộc xã Cao Quảng, huyện Tuyên Hóa ngày nay.
(3). Trung Hòa Hạ: làng Mỹ Hòa, thuộc xã Quảng Phúc ngày nay. Từ Cồn Quan, đau đáu nhìn về chốn cũ, người xưa có câu:
Chiều chiều ngó xuống Mỹ Hòa
Buồm dong đôi ngọn, vui đà nên vui.


Nguồn: http://nguoibadon.blogspot.com/2012/03/lang-que-ben-song.html

11 nhận xét:

  1. Bạn Thành Sơn, và các bạn! Để đảm bảo tôn trọng tác quyền, các bạn nên ghi rõ nguồn của bài viết (nếu không phải là của các bạn tự viết), hoặc ghi rõ trích dẫn (nếu là bài các bạn tổng hợp).
    Thân!

    Trả lờiXóa
  2. Mình có 1 kỷ niệm với phà Gianh ri:
    Hôm nớ, mấy đứa lớp mình hẹn đi Đồng Hới chơi. Một số mượn (hay lấy trộm) của ba mạ được xe máy và có ghé vô nhà rủ mình đi. Có Ông Việt ở nhà, ông không cho, mấy đứa đi trước, mình ngồi khoóc (cấp 3 rồi nha), rứa là ông Việt mũi lòng, ông nói lên xe ba chở đuổi theo, mình nói nhưng mà bọn hắn đi rồi, ông nói thì ba chở đến phà mà bọn hắn đi rồi thì thôi, nhưng mình khoóc sưng mắt rồi nên quyết không đi nữa ...

    Trả lờiXóa
  3. Sông Gianh - Sông Gianh
    Quê ba ở bên ni sông - Quảng Phong, quê Mạ ở bên tê sông - Quảng Lộc, cùng lớn lên bên 1 dòng sông, rứa mà hồi nhỏ răng đi tắm sông không gặp nhau, để đến khi cùng nhau học ở Hà Nội mới nên duyên, và chừ có ai đây hè ..

    Trả lờiXóa
  4. Không có gặp đâu nhé. Mỗi người ở một bên, sông lại rộng, mần răng gặp được. Tuy nhiên, không gặp nhưng có lẽ vẫn chộ nhau. Khi tắm sông (ở đó gọi là rào), bên ni cởi áo quần nhảy cái "ùm", bên tê cũng cởi quần áo nhảy cái "tỏm", hét hò, bơi lội, kiểu chi bên ni cũng để ý bên nớ, rồi bên nớ kiểu chi cũng chộ bên ni. Cái thắc mắc ở đây là ... chộ cái chi, chộ ra răng, để mà, đến khi lớn vẫn không quên được cái "chộ" nớ, ra HN vẫn quyết tìm nhau để lấy nhau mới được? hehe..

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. e rứa
      mà ri nựa
      nhờ có con nước của Sông Gianh mà cái đầm tôm của nhà ông Trường mới ăn nên làm ra, thế nên có mấy vụ vợt tôm về đánh chén, thất thoát rứa mà ông Trường không phát hiện ra.

      Xóa
    2. Hồi nớ thiếu gạo chứ tôm cá thiếu chi, cả dãy tập thể được ăn tôm. Mỗi lần đãnh tôm về là lại phải đi ăn trộm gạo của mệ Miên nấu cháo.
      Nhờ đi soi tôm ngoài sông, lâu lâu mình được coi fim "heo" miễn phí. Có hôm hai cha con đi soi soi phải mấy cặp "ếch" luôn, già có trẻ có, chúng nó còn bảo " Bác soi chộ khác cho bọn cháu làm ăn tý". Có hôm thì soi được hai ông bà cũng sồn sồn đang chống đẩy.

      Xóa
    3. Mình cũng thi thoảng được ké vài bữa với nhà Sơn, vui đáo để nha. Cua- có vài con cua mạ, Tôm - có rất, rất và rất chi là nhiều tôm. Đi soi về nấu ăn cả đêm. Nói thật, ngày đó, tôm cua chỉ là thứ vặt vãnh, cơm trắng mới là vấn đề. Cái đèn soi ngày đó cũng oai lắm.

      Mình sẽ kể cụ thể vào "Ký ức thời gian phần tiếp theo".

      Xóa
    4. Hồi nớ, hôm thì ăn sáng nhà này, hôm ăn sáng nhà khác chứ bi chừ thì khó hè...

      Xóa
  5. Nói về sông gianh với tớ không có gì nhớ hơn ngày lớp đi Đá nhảy (Cuộc dã ngoại đầu tiên), thời khó khăn đến thế mà các bạn có nhớ là Lớp mình bị đỗ mất 1 thúng xôi khi xuống phà không? (Xôi vò thầy Lợi nấu đó nhé - Có lẻ là cả nhà thầy phải thức khuya để nấu đó). Tiếc ơi là tiếc! Đứa nào chở mình không nhớ nữa. Đề nghị tự khai và hẹn ngày đền cho cả lớp đi nhé.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tý rượu chớ ai. Giao cho chở đồ thì đi cứ nghênh nam ngó nồm làm đổ cả. Mà cái tật ni vẫn chưa trừa, hôm lớp họp mặt giao cho chức phó nháy cũng theo cụng mấy ly bia mà ảnh thì cứ vẹo vọ hết cả, cái thì cụt chân, cái thì được nữa mặt...O đề nghị chụp mấy kiểu ảnh, nói ok, thấy đèn chớp lia lịa nhưng cuối cùng chẳng được cái mô.

      Xóa
  6. Nói về Sông Gianh, tui lại nhớ có bũa mấy thàng trốn học đi tắm ở Quảng Thuận, gần Nhà máy Xi Mang bữa ni là nàh máy Phân bón Sông Gianh, hôm đó Ngoc Hạc bơi qua được nhưng khi đi về đuối sức, chút nũa bỏ mạng lại rồi.Từ bữa đó là cạch đến già. hihi

    Trả lờiXóa

Xem xong thì viết vài dòng cảm nhận nhé.
Đã thêm tiện ích chèn ảnh vào "nhận xét", sẽ hướng dẫn các bạn cụ thể sau.